Với trên 15 năm kinh nghiệm tư vấn pháp lý nói chung và tư vấn về hôn nhân, bất động sản nói riêng, để Khách hàng có thể nắm bắt được tình hình vấn đề, bao giờ chúng tôi cũng đưa ra những điều khoản mà Luật quy định.
Theo đó, tại khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.”
Căn cứ vào quy định trên thì đối với trường hợp mua nhà trả góp để xác định hình thức sở hữu sẽ được phân chia làm hai trường hợp cụ thể như sau:
-Một bên mua nhà trả góp và đã thực hiện xong phần trả góp cho toàn bộ hợp đồng mua nhà trả góp đó trước khi kết hôn, thì tài sản này đương nhiên được xác định là tài sản riêng của vợ hoặc chồng vì đây là tài sản được hình thành trước thời kỳ hôn nhân;
-Một bên mua nhà trả góp và chưa thực hiện xong phần trả góp cho toàn bộ hợp đồng mua nhà trả góp đó mà kết hôn, sau đó tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả góp trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản này được xác định là tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Như vậy, việc mua nhà trả góp trước khi kết hôn tùy thuộc vào thời gian thanh toán của hợp đồng và thời điểm bạn kết hôn mà xác định tài sản là căn nhà mua trả góp là tài sản riêng trước thời kỳ hôn nhân hay tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Tuy nhiên, việc xác định tài sản chung này sẽ căn cứ trên phạm vi đóng góp cho việc tạo lập khối tài sản chung của mỗi bên để xác định rõ ràng phần sở hữu của mỗi bên.